Tại sao khoa học hiện đại ra đời từ phương Tây?

vozuser

Xàm 0 Lít
Tại sao khoa học hiện đại ra đời từ phương Tây?

Tìm Google: Tại sao khoa học hiện đại ra đời từ phương Tây

Thứ hai, 11/06/2012 15:25 http://www.baoangiang.com.vn/Cong-n...sao-khoa-hoc-hien-ai-ra-oi-tu-phuong-Tay.html
http://www.dokiencuong.com/tai-sao-khoa-hoc-hien-dai-ra-doi-tai-phuong-tay-27.html
Gửi 08:21am | 13/05/2012 http://www.xaluan.com/modules.php?name=News&file=article&sid=390611
Nửa thế kỷ trước chuyến viễn du vòng quanh thế giới của Columbus, hạm đội của Trịnh Hòa, với các con tàu dài hàng trăm mét và hải đội gần 30.000 người, đã đi tới tận mũi Hảo Vọng tại Nam Phi. So với hạm đội kỳ vĩ đó, mấy con tàu bé tẹo của Columbus chỉ đáng làm trò cười! Vậy tại sao chỉ sau vài thế kỷ, Tây Âu đã vượt lên phía trước?

Đó là câu hỏi đã được đặt ra từ khá lâu, bởi nhìn từ bình diện nhân loại, không chỉ trong lịch sử mà tới hiện tại, sự khác nhau giữa phương Tây và phương Đông là một thực tế khó có thể bác bỏ. Cuối thập niên 30 của thế kỷ trước, nhà sử học nổi tiếng người Anh Joseph Needham (1900-1995) đặt câu hỏi:
Tại sao khoa học hiện đại ra đời tại phương Tây? Vì khoa học là một trong những động lực chủ yếu của nền văn minh công nghiệp, nên câu hỏi đó cũng liên quan với sự ra đời của của chủ nghĩa tư bản và văn minh phương Tây.

Nhiều nhà khoa học đã cố gắng tìm kiếm câu trả lời, với các lý thuyết được chia thành hai nhóm chính: các lý thuyết văn hóa và các lý thuyết cấu trúc (hoặc các lý thuyết duy vật).

Cuối những năm 1930, Needham là người đầu tiên đưa ra câu hỏi, Tại sao khoa học hiện đại được phát minh tại phương Tây, chứ không phải tại Trung Quốc hoặc Ấn Độ?, và ông bắt đầu nghiên cứu về lịch sử khoa học và công nghệ Trung Quốc thời tiền hiện đại.

Và rồi, tuy đạt nhiều thành tựu trong lĩnh vực chuyên sâu, với việc hoàn thành bộ sách Khoa học và Văn minh Trung Hoa đồ sộ gồm bảy tập với hàng ngàn trang, ông lại hoàn toàn bỏ quên câu hỏi quan thiết ban đầu.

Nhưng thật may mắn là các nhà khoa học vẫn tiếp tục tìm kiếm câu trả lời cho Câu hỏi lớn, với quan niệm đúng đắn rằng, nó không chỉ giúp chúng ta tìm hiểu quá khứ, mà còn góp phần định hướng tương lai.

Một số học giả cho rằng, hai câu hỏi tại sao khoa học xuất hiện tại phương Tây và tại sao khoa học không xuất hiện tại Trung Quốc không hoàn toàn tương đồng nhau. Số khác thì phủ nhận Câu hỏi lớn, khi xem phương Tây chỉ may mắn “trúng số độc đắc”.

Trong khi đó, nhiều học giả vẫn tiếp tục tranh luận về câu hỏi của Needham, đặc biệt qua các nghiên cứu so sánh giữa phương Tây và Trung Quốc hoặc Ấn Độ. Các nghiên cứu đó khác nhau về bản chất của những yếu tố then chốt quyết định sự ra đời của khoa học hiện đại và được phân thành hai nhóm chính: các lý thuyết văn hóa và các lý thuyết cấu trúc (hoặc các lý thuyết duy vật).

Điển hình cho những cố gắng xem các thành tố văn hóa là yếu tố quyết định sự phát triển hoặc kìm hãm khoa học trong các xã hội khác nhau là cuốn sách nổi tiếng Sự phát triển của khoa học hiện đại buổi ban đầu:

Thế giới Hồi giáo, Trung Quốc và phương Tây của Toby Huff, nhà xã hội học Mỹ, năm 1993. Trong khi đó, điển hình cho các lý thuyết cấu trúc, xem các yếu tố sinh thái và các cấu trúc chính trị và xã hội được phát triển trên đó đóng vai trò nền tảng, là tác phẩm Địa lý của khoa học của Harold Dorn (1991), các công trình của Lang (1997-1998) và cuốn Bí ẩn của phương Tây của Cosandey (bản tiếng Pháp năm 1997).

Chúng ta có thể thấy tiếp cận văn hóa của Huff có nguồn gốc từ tận Max Weber; trong khi tiếp cận cấu trúc của Dorn, Lang hoặc Cosandey xuất phát từ luận điểm của Friedrich Engels, đồng tác giả của chủ nghĩa xã hội khoa học.

Và như vậy cuộc tranh luận kinh điển cách đây hơn một thế kỷ về nguyên nhân căn bản của những thay đổi văn hóa và xã hội vẫn còn nóng hổi tính thời sự trong các nghiên cứu hiện đại về sự xuất hiện của nền văn minh công nghiệp và hậu công nghiệp.

Các lý thuyết văn hóa:

max.png

Theo Max Weber, đạo đức Tin Lành là chất xúc tác chính giúp chủ nghĩa tư bản ra đời
Theo hướng nghiên cứu này, tiếp cận văn hóa về sự khác nhau giữa văn minh phương Đông và văn minh phương Tây đặt trọng tâm vào các giá trị và hệ đức tin. Theo đó châu Âu có các giá trị và đức tin dẫn tới sự ra đời của khoa học hiện đại.

Trong khi Trung Quốc có hệ giá trị và đức tin dẫn tới các lĩnh vực văn hóa khác, chẳng hạn văn chương, và kìm hãm sự phát triển của khoa học. Người khởi xướng cho cách nhìn nhận này là Max Weber, với tác phẩm nổi tiếng Nền đạo đức Tin Lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản (bản tiếng Việt đã được NXB Tri Thức phát hành năm 2008).

Cách giải thích thường thấy nhất của trường phái này về sự chậm chân của Trung Quốc trên con đường hiện đại hóa văn hóa và xã hội, trong đó có khoa học, là Khổng giáo không tương thích với việc theo đuổi kiến thức và chân lý.

Trong tác phẩm Văn minh và nền hành chính Trung Hoa, do Đại học Yale, Mỹ, xuất bản năm 1964, Etience Balazs viết: “nguyên nhân kìm hãm chủ yếu dường như là không gian tri thức của đạo Khổng hoàn toàn không thuận lợi cho bất cứ một tìm tòi thử nghiệm nào, cho bất cứ một sự đổi mới nào, hoặc cho sự tự do tư tưởng”.

Cho đến gần đây, ngay các học giả người Hán cũng suy nghĩ như vậy. Chẳng hạn năm 1998, Giáo sư Chen-Lu Tsou, Chủ tịch Hội hóa sinh Trung Quốc, viết trên tạp chí Khoa học lừng danh của Hội tiến bộ khoa học Mỹ rằng, sự kém cỏi của khoa học Trung Quốc là do các căn nguyên văn hóa như Khổng giáo hoặc Đạo giáo.

Ông viết: “Một trong những nền tảng của Khổng giáo, nhu cầu biết danh phận của mình trong xã hội, đã tạo ra tính liên tục của văn minh Trung Hoa qua các triều đại khác nhau. Nhưng tư tưởng danh phận đối nghịch với sự tò mò và tính sáng tạo, và tôi cho rằng ảnh hưởng của Khổng giáo giải thích tại sao chưa bao giờ Trung Quốc mạnh về khoa học, nhất là khoa học trừu tượng”.

Mới nhất là quan điểm của Dương Chấn Ninh, nhà khoa học Mỹ gốc Hoa từng đọat giải Nobel vật lý, đưa ra năm 2004, xem văn hóa Trung Quốc, trong đó có Kinh Dịch, là căn nguyên của sự lạc hậu. Cùng lúc đó, tiếp cận văn hóa cũng giải thích nguyên nhân trỗi dậy của châu Âu nằm ở ảnh hưởng của Thiên Chúa giáo, nhất là đạo Tin Lành, ở pháp chế La Mã hoặc tinh thần Hy Lạp.

Một vấn đề mà tiếp cận văn hóa phải đối diện là đa số giới khoa học xã hội không xem văn hóa là tập hợp bất biến các tư tưởng và các qui phạm được đặt lên một xã hội. Văn hóa bao gồm các hình tượng và các tư tưởng được dùng một cách chọn lọc và sáng tạo để phù hợp với nhu cầu của các nhóm xã hội khác nhau.

Đó là đặc trưng tiếp biến của văn hóa. Nếu các học giả Trung Hoa muốn phát triển khoa học, chỉ riêng triết học và tôn giáo không thể cản bước họ. Trên thực tế, tại châu Âu, giáo lý và các định chế Thiên Chúa giáo cản trở khoa học không kém gì Khổng giáo, mà việc đưa Bruno lên giàn thiêu hoặc buộc Galileo từ bỏ niềm tin trước tòa án tôn giáo chỉ là số ít các trường hợp điển hình.

Sự khác nhau nằm ở chỗ, giới khoa học châu Âu có động lực mạnh mẽ để tìm ra các lối thoát thích hợp. Chẳng hạn họ tuyên bố nghiên cứu khoa học để khám phá sự sáng tạo tối cao, tất cả chỉ nhằm sáng danh Thiên Chúa! Vậy tại sao họ lại có động lực đó?

Hiểu rõ điều đó với tư cách người đi sau, nên tuy mở rộng quan điểm của Weber về ảnh hưởng của tôn giáo khi viết:

“sự thành công của khoa học hiện đại tại phương Tây, và sự không thành công trong các nền văn minh khác, cần được giải quyết bằng việc nghiên cứu các lĩnh vực phi khoa học của văn hóa như luật pháp, tôn giáo, triết học, thần học và những gì tương tự”, nhưng Huff đã khôn ngoan lựa chọn giải pháp khác.

Giữa một biến số độc lập (văn hóa) và một biến số phụ thuộc (sự xuất hiện của khoa học hiện đại), ông chọn một biến số trung gian có sức ảnh hưởng mạnh mẽ là cấu trúc xã hội: đó là sự phát triển của các định chế chí ít cũng tự chủ một phần, trong đó các đòi hỏi trí tuệ có thể xuất hiện mà không bị thế quyền hoặc thần quyền ngăn cản.

Quả thật tại châu Âu, các thành phố tương đối tự chủ và các trường đại học với đặc trưng trí tuệ riêng biệt, có sự tự do nhất định đối với nhà nước, là một đặc trưng nổi bật; và một số thành phố như thế tồn tại cho đến tận ngày nay, chẳng hạn tiểu quốc Monaco.

Nhưng tại sao các định chế như vậy phát triển tại châu Âu Thiên Chúa giáo mà không xuất hiện tại Trung Đông Hồi giáo hoặc Trung Quốc Khổng giáo? Huff lại đưa ra cách giải thích văn hóa, khi xem triết học và thần học là lời giải đáp cuối cùng.

Tại châu Âu, thế giới được xem là có trật tự, thậm chí cơ giới; và con người có thể tìm hiểu tự nhiên và điều chỉnh xã hội qua lý trí. Nguồn gốc của đức tin đó nằm ở truyền thống khoa học và triết học Hy Lạp, luật pháp La Mã và thần học Thiên Chúa giáo.

Ngược lại, luật pháp Hồi giáo ngăn ngừa sự ra đời của các định chế độc lập có thể đưa ra các yêu cầu duy lý, vì tại đó, chỉ các giáo sĩ mới được bàn về pháp luật. Với Trung Quốc, Huff cũng cho rằng các “phương thức tư duy” đặc trưng cho Khổng giáo hoặc Đạo giáo không hề khuyến khích sự tự phủ định biện chứng để tìm tòi chân lý mới.

Ông cũng phê phán cách giáo dục “cắt dán” và sự thừa nhận không phê phán các chân lý và niềm tin cổ xưa, xem đó là một yếu tố phản tiến bộ. Đó là sự phê phán hoàn toàn chính xác. Nhưng đến đây thì một câu hỏi mới nan giải hơn lại xuất hiện: Vậy tại sao Khổng giáo thống trị văn hóa Trung Hoa?

toby.jpg

Theo Toby Huff, tinh thần Hy Lạp và thần học Thiên Chúa giáo cho phép khoa học ra đời tại phương Tây
Cần nhấn mạnh rằng, tuy Huff và các học giả đồng quan điểm chưa giải đáp được câu hỏi vừa nêu, điều đó không có nghĩa cách giải thích dựa trên sự khác biệt văn hóa là quan niệm sai lầm.

Tuy nhiên nếu chỉ dừng ở các lý thuyết văn hóa mà không đi tới các lý thuyết cấu trúc hoặc duy vật, là các lý thuyết có thể giải thích nguyên nhân của sự khác biệt đó, chúng ta vẫn chưa đi tới câu trả lời tối hậu cho Câu hỏi lớn của Needham.

Tại sao lại cần các lý thuyết cấu trúc hoặc duy vật? Để trả lời, hãy thử nêu một vài câu hỏi khác. Chẳng hạn, tại sao người Lạc Việt, chứ không phải người Mông Cổ, phát minh nghệ thuật rối nước? Ngược lại, tại sao người Mông Cổ, chứ không phải người Lạc Việt, ưa thích các bài ca du mục?

Câu trả lời thật đơn giản theo quan điểm duy vật lịch sử: Suy cho đến cùng, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội chứ không phải ngược lại.

Không phải đạo đức Tin Lành là chất xúc tác chính cho sự xuất hiện của chủ nghĩa tư bản, như Weber quan niệm, mà chính chủ nghĩa tư bản đã giúp các tư tưởng Tin Lành nẩy sinh và phát triển; đến lượt mình, các tư tưởng đó lại góp phần thúc đẩy thêm cho sự phát triển tư bản chủ nghĩa.

Người viết bài này hy vọng sẽ có dịp trình bày về những sai lầm của Max Weber trong việc thu thập số liệu và lập thuyết trong tác phẩm Nền đạo đức Tin Lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản; cũng như lý giải sức sống lâu bền của một quan niệm thực ra không chỉnh (sự tự tôn văn hóa và lý tưởng hóa chủ nghĩa tư bản là hai trong số bốn nguyên nhân cơ bản).

Các lý thuyết cấu trúc:

Các lý thuyết cấu trúc hoặc duy vật xem nguyên nhân xuất hiện khoa học hiện đại tại Tây Âu và sự vắng mặt tại Trung Quốc, Ấn Độ hoặc Trung Đông nằm ở các yếu tố sinh thái, xã hội, kinh tế và chính trị của các vùng địa lý rất khác nhau đó. Tất nhiên hệ giá trị và đức tin cũng liên quan với các điều kiện sinh thái, cấu trúc xã hội hoặc các thể chế chính trị và kinh tế.

Tuy nhiên nếu quan điểm văn hóa xem hệ giá trị và đức tin là yếu tố khởi đầu; thì quan điểm duy vật xuất phát từ các điều kiện vật chất và các định chế được cấu trúc để tác động lên hệ giá trị và đức tin, vốn chỉ xuất hiện khi con người tổ chức nhau lại để thích ứng với một không gian sinh tồn mang tính vật chất cụ thể.

Để tránh những tranh cãi không cần thiết về vai trò của phương Đông trong khoa học và công nghệ như phát minh hệ số đếm tại Ấn Độ hoặc tìm ra thuốc súng, la bàn, giấy viết và kỹ thuật in tại Trung Quốc, trước tiên cần định nghĩa khái niệm “khoa học hiện đại”.

Khái niệm khoa học hiện đại:

lang.jpg

Theo Graeme Lang, các thành tố vật chất như chế độ chính trị và địa lý quyết định sự thành công hoặc thất bại của một quốc gia
Theo Graeme Lang ở Đại học Hồng Công, một cách để giới thuyết khái niệm xuất phát từ nhận thức luận của khoa học: khoa học hiện đại được xem như một cách để ‘tìm hiểu” thế giới và một hệ thống tự phủ định của các học thuyết và các khám phá thu được khi theo đuổi nhận thức luận đó.

Cách thức tìm hiểu và hệ thống các lý thuyết đó bao gồm các thành phần như sau: 1) Các quan sát và thực nghiệm hướng tới sự tìm hiểu tự nhiên; 2) Phát triển lý thuyết về các quá trình tự nhiên dựa trên các quan sát và thử nghiệm đó; 3) Thử nghiệm lý thuyết vừa phát triển bằng các quan sát và thực nghiệm tiếp theo.

Nhận thức luận của khoa học hiện đại cũng bao gồm một hợp thành xã hội học rất quan trọng: các lý thuyết hoặc các phát hiện không được xem là “kiến thức khoa học” cho đến khi được cộng đồng khoa học phản nghiệm và thừa nhận.

Vì thế khoa học cũng bao gồm các cách thức để giới chuyên môn xem xét và lượng giá kết quả nghiên cứu của các đồng nghiệp, như: 4) Thông tin và chia xẻ kết quả với các đồng nghiệp cùng mối quan tâm; 5) Diễn đàn để thông báo và so sánh các kết quả nghiên cứu theo bộ tiêu chí chung, như hội nghị khoa học, các tạp chí chuyên ngành, cách phổ biến kiến thức trong cộng đồng khoa học.

Có thể nói rằng, phương pháp luận của khoa học hiện đại (thực nghiệm, toán học hóa, văn bản hóa chi tiết các quan sát...) chính là cách tốt nhất để thuyết phục giới chuyên môn về thành tựu của một nhà khoa học. Sự định chế hóa khoa học cũng bao gồm sự thừa nhận nhận thức luận nói trên và sự tiến hóa của các diễn đàn thảo luận.

Vì thế nó bao gồm hai phát triển quan trọng tiếp theo: 6) Các cơ sở trong cấu trúc xã hội của một xã hội, nơi việc nghiên cứu được tiến hành với sự tài trợ của những người quan tâm tới các nghiên cứu đó; 7). Các giải thưởng xứng đáng cho các nghiên cứu được cộng đồng khoa học thừa nhận, bao gồm các giải thưởng vật chất (tiền thưởng, sự thăng tiến nghề nghiệp...) và tinh thần (huân huy chương, danh hiệu tôn vinh...).

Một cách tương ứng, có thể hiểu khoa học tiền hiện đại tương ứng với giai đoạn trước khi có sự định chế hóa khoa học và phát triển các diễn đàn học thuật như trên. Nó bao gồm công trình của các nhà lý thuyết và thực nghiệm riêng lẻ, tiến hành nghiên cứu mà không hiểu biết đầy đủ về phương pháp thực nghiệm, không sử dụng hoặc không xây dựng được các lý thuyết có thể phản nghiệm.

Theo cách hiểu đó thì khoa học tại Trung Quốc, Ấn Độ và Trung Đông mới ở mức tiền hiện đại. Tuy nhiên không có ranh giới rõ ràng giữa hai giai đoạn đó. Đa số các học giả thừa nhận rằng, khoa học hiện đại bắt nguồn tại châu Âu từ thế kỷ XVI tới thế kỷ XVII, khi xuất hiện đầy đủ các đặc trưng nhận thức luận như trên, cũng như xuất hiện các cộng đồng khoa học.

Điều kiện tiên nghiệm của khoa học:

Các đặc trưng vừa nêu của khoa học hiện đại không quá khác thường và cũng không vượt quá khả năng của nhiều xã hội với thặng dư nông nghiệp lớn và có sự phân công lao động phức tạp. Vậy tại sao khoa học chỉ được định chế hóa tại châu Âu và chỉ từ thế kỷ XVI?

Đó là do chỉ tại đó và đến thời điểm đó, các điều kiện cần thiết cho sự xuất hiện của khoa học hiện đại mới được thỏa mãn. Các điều kiện tiên nghiệm đó bao gồm: 1) Thặng dư lương thực làm nền cho sự phân công lao động phức tạp; 2) Chữ viết; 3).

Các nghề nghiệp có thời gian truy vấn và khám phá, đặc biệt trong các tổ chức ủng hộ vật chất cho các hoạt động đó, như cơ quan hành chính nhà nước hoặc viện hàn lâm. Khoa học không thể tiến bước chỉ nhờ kết quả của những cá nhân riêng lẻ dùng tiền túi để theo đuổi giấc mơ tri thức.

Ngoài ba điều kiện cần như trên, khoa học hiện đại chỉ xuất hiện khi có các điều kiện đủ như sau: 4) Càng nhiều cơ sở nghiên cứu hoặc đơn vị học thuật càng tốt, vì việc nghiên cứu tại một cơ sở duy nhất dễ dàng bị ngưng trệ (chiến tranh, dịch bệnh, sự bảo thủ...); 5) Sự trao đổi tri thức hiệu quả giữa các cơ sở nghiên cứu.

Hai điều kiện này cần thiết để khoa học có thể sinh tồn xuyên thế hệ trong một khoảng thời gian đủ dài. 6) Tự do theo đuổi giấc mơ chân lý mà không bị cản trở vì các lý do ngoài khoa học, như ý thức hệ chính trị hoặc tư tưởng tôn giáo; 7) Một hệ thống giáo dục cho phép bảo tồn các giá trị cũ và hướng tới chân lý mới, cho phép các thế hệ sau “đứng trên vai người khổng lồ”.

Bảy điều kiện trên có vai trò rất quan trọng, nhưng cũng chưa đảm bảo khoa học hiện đại sẽ xuất hiện như một tất yếu lịch sử. Giới trí thức có thể dùng sự tự do và sự trợ giúp của các định chế để theo đuổi các hoạt động khác thú vị hơn hoặc đỡ vất vả hơn nghiên cứu khoa học, chẳng hạn viết văn hoặc làm thơ, như các nhà nho phương Đông từng làm.

Nhất định phải có những lý do không chỉ “thuần lý” mà còn “thực dụng” để giới trí thức giam mình trong phòng thí nghiệm. Chỉ một số trí thức theo đuổi khoa học vì sự tò mò cá nhân không thể duy trì được các hoạt động tập thể của khoa học một cách lâu dài.

Vì thế điều kiện tiên nghiệm cuối cùng, có thể quan trọng nhất, để khoa học xuất hiện chính là: 8) Các phần thưởng vật chất xứng đáng cho những tiến bộ khoa học, nhất là khi giải quyết các vấn đề nan giải tại chỗ. Và điều kiện này thường chỉ có trong một không gian địa lý có sự cạnh tranh cao.

Cả châu Âu và Trung Quốc đều sản xuất lương thực dư thừa để hỗ trợ cho sự phân công lao động phức tạp và đều có chữ viết. Vì thế cần tìm sự khác biệt giữa hai vùng ở điều kiện thứ 4, các cơ sở nghiên cứu.

Trường đại học phương Tây là sự khác biệt:

Tại châu Âu thời trung cổ, tu viện từng là cơ sở học thuật, nơi bảo tồn các tinh hoa Hy Lạp và La Mã. Có lý do để cho rằng, thời đó giới trí thức đến tu viện một phần vì đó là nơi họ có thể nghiên cứu và thảo luận (một cách hạn chế) về thế giới tự nhiên mà không bị cấm đoán. Tuy nhiên khác biệt lớn nhất giữa châu Âu và Trung Quốc là sự xuất hiện các trường đại học tại Tây Âu cuối thời trung cổ. Ngay cả Huff, trong khi vẫn đặt trọng tâm ở các yếu tố văn hóa, cũng lưu ý tới yếu tố “cấu trúc” này, khi cho rằng, khoa học hiện đại cần các cơ sở học thuật tương đối độc lập, nơi nhu cầu tri thức không bị thế quyền và thần quyền ngăn cản. Các đơn vị học thuật đó tồn tại tại châu Âu, nhất là các trường đại học được thành lập trong thế kỷ XVII. Chúng có sự tự do nhất định khi theo đuổi các nhu cầu về luật pháp, y khoa và thế giới tự nhiên và cung cấp tới 90% nguồn nhân lực khoa học cho cả châu Âu trong giai đoạn 1450 - 1650.

Bên cạnh đó, sự giao thương dễ dàng giữa các thành phố tự trị trải khắp lục địa cũng giúp cho việc trao đổi tri thức giữa các cơ sở học thuật trở nên nhanh chóng và thuận tiện. Vào thời Galileo, một khám phá mới có thể lan tỏa khắp châu lục chỉ trong vòng một vài tuần lễ.

Tại Trung Quốc, các cơ sở học thuật hoàn toàn không mang tính duy lý hoặc khoa học, tức không theo đuổi các nhu cầu tìm kiếm chân lý, mà chỉ là nơi “quán triệt” các tư tưởng chính thống của giới cầm quyền, ở đây là vị hoàng đế chuyên chế phương Đông, người không chỉ đứng trên bậc thang cao nhất của thế quyền mà cả thần quyền. Nhà nước chuyên chế Trung Hoa khống chế đời sống học thuật đất nước và lựa chọn giới trí thức cho nhu cầu của mình thông qua hệ thống khoa cử đặc trưng, bắt đầu từ thời Tùy (589 - 617), được chuẩn hóa trong thời Tống (960 - 1275) và được cải biên vào năm 1382 dưới thời Minh. Hệ thống này đảm bảo được các nhu cầu ý thức hệ của đế chế khi biến giới trí thức tinh hoa thành một tầng lớp trung gian dùng trí tuệ của mình để biện minh và bảo vệ vương quyền và chế độ vương hữu của hoàng đế (thuật ngữ và khái niệm của cố học giả Trần Đình Hựu). Vương quyền và sự vương hữu tuyệt đối đó, cùng ý thức hệ Khổng giáo, đã triệt tiêu hoàn toàn sự tự do tư tưởng và sự khát khao chân lý, những yếu tố không thể thiếu của một cuộc cách mạng học thuật bất kỳ.

Tuy nhiên không nên xem sự bảo thủ tư tưởng chỉ là sản phẩm của nền chuyên chế phương Đông. Châu Âu cũng từng trải qua Đêm trường Trung cổ, với các học giả kiểu Aristotle (khi Galileo thử nghiệm sự rơi tự do trên tháp nghiêng Pisa, các học giả đó tuyên bố, họ không cần biết Galileo làm gì, vì chỉ cần đọc trước tác của Aristotle là đủ!), các cấm kỵ Gia tô và quyền lực được thần thánh hóa của các vị vua chúa. Nhưng những người ủng hộ trật tự đó không có khả năng ngăn chặn sự đa dạng hóa tư tưởng và nỗi khát khao chân lý đang nổi lên, do sự phân bố quyền lực phân tán nên không một thế lực chính trị hoặc tôn giáo nào có thể kiểm soát toàn châu lục. Năm 1969, Needham nhận xét chính xác rằng, bất cứ mối quan tâm nào tới vai trò của Khổng giáo khi trả lời câu hỏi của ông đều không chính xác, cho đến khi tìm ra được nguyên nhân giải thích tại sao Khổng giáo thống trị bầu không khí tư tưởng và học thuật Trung Hoa. Nguyên nhân của sự thống trị đó thực ra rất rõ ràng: nhà nước chuyên chế Trung Quốc bảo vệ ý thức hệ chính thống bằng nhiều phương cách khác nhau, đặc biệt qua hệ thống khoa cử và sự trấn áp không khoan nhượng mọi triết thuyết cạnh tranh; trong khi không một thế lực chính trị hoặc tôn giáo nào có khả năng áp đặt hệ tư tưởng của mình trên toàn thể châu Âu. Các quốc gia châu Âu tương đối yếu cho đến tận cuối thời Trung cổ, và quyền lực chính trị bị chia sẻ giữa các quốc gia đối địch nhau, trong đó mỗi quốc gia lại bao gồm nhiều thành phố tự chủ một phần và các định chế độc lập tương đối khác, chẳng hạn trường đại học.

Đến đây thì chúng ta đã đi tới một câu hỏi mang tính tối hậu: Vậy tại sao một nhà nước tập quyền cao độ xuất hiện tại Trung Hoa, trong khi quyền lực chính trị lại phân tán khắp châu Âu? Câu trả lời không phải là văn hóa, mà là địa lý và sinh thái, tức không gian vật chất sinh tồn của các cộng đồng dân cư.

Địa lý và sinh thái:

Một trong những luận giải lâu đời và gây tranh cãi nhất về bản chất nhà nước tại Trung Quốc là giả thuyết “nền nông nghiệp trị thủy”, được Engels đưa ra đầu tiên trong tác phẩm Về chủ nghĩa thực dân viết chung với Marx. Wittfogel phát triển giả thuyết năm 1957; còn Dorn dùng nó cho bài toán ra đời của khoa học hiện đại trong tác phẩm năm 1991 (đã dẫn ở đầu bài viết).

Wittfogel cho rằng các nhà nước chuyên chế thường xuất hiện trong lưu vực của các con sông lớn, như Ai Cập, Trung Quốc hoặc vùng Lưỡng Hà. Ông giả thuyết nhà nước xuất hiện khi làng mạc quanh các con sông kết hợp với nhau nhằm xây dựng, duy trì và phát triển hệ thống thủy lợi để phát triển sản xuất và khắc phục thiên tai. Đó không nhất thiết là sự lựa chọn tự do, mà nhiều khi là bắt buộc vì sự sinh tồn của cư dân ven dòng nước dữ. Sự hợp tác đó giúp cải thiện nền sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, khi nhà nước hình thành với tư cách một thể chế thể hiện sự thống nhất ý chí và sức mạnh trước thiên nhiên, nó nhanh chóng trở thành quan liêu, khi dùng bộ máy quyền lực để đàn áp mọi sức kháng cự nhằm duy trì đặc quyền đặc lợi. Một nhà nước chuyên chế như thế sẽ kìm hãm sự phát triển của khoa học hiện đại, như đã xảy ra tại Trung Quốc.

Mặc dù bị chỉ trích (các hệ thống thủy lợi tại Trung Quốc có quy mô nhỏ xét trên địa lý tổng thể toàn quốc gia), nhưng giả thuyết trị thủy cũng giải thích được tại sao nhà nước tại các vùng nông nghiệp thủy lợi hóa thường chuyên chế hơn các thể chế tại những nơi mà tiểu thủ công và thương mại tạo ra các thành phố tương đối độc lập và tầng lớp thị dân, trước khi một nhà nước tập trung hóa kịp xuất hiện.

Cần nhấn mạnh rằng, Trung Quốc cũng trải qua các thời phân tranh; còn tại châu Âu, cũng có những cố gắng thống nhất. Tuy nhiên Trung Quốc luôn nhanh chóng thống nhất sau mỗi lần phân rã; còn tại châu Âu, ngay một thiên tài kiệt xuất như Napoleon cũng phải cúi đầu chịu thất bại. Vậy tại sao Trung Quốc luôn có xu hướng hội tụ, còn châu Âu luôn có xu hướng phân kỳ? Câu trả lời tối hậu là địa lý Trung Quốc thuận lợi cho sự tập quyền; còn địa lý châu Âu khuyến khích sự phân quyền. Và điều đó quyết định sự ra đời của khoa học hiện đại.

Tại châu Âu, một nhà nước trị thủy có xu hướng quan liêu hóa không hề xuất hiện, vì nền nông nghiệp tại đây dựa trên nước mưa tự nhiên. Lượng nước mưa dồi dào cho phép phát triển các nền sản xuất nông nghiệp cục bộ, dẫn tới việc hình thành các cộng đồng dân cư phân tán. Hệ thống bờ biển khúc khuỷu tạo điều kiện hình thành các thành phố dựa trên thương mại, nhất là thương mại đường biển. Bên cạnh đó, các dãy núi cao tạo thành rào chắn tự nhiên ngăn cách các vùng, cho phép mỗi vùng phát triển một hệ thống nhà nước ổn định, với sự khác biệt nhất định về văn hóa. Các quốc gia này luôn phải cạnh tranh nhau, nên một tư tưởng mới luôn có thể tìm được mảnh đất thích hợp để gieo mầm. Nếu bị hạn chế ở nơi này, nó có thể đi tìm đến nơi khác, một điều bất khả trong một đế chế thống nhất. Minh chứng cho điều này là chuyến thám hiểm vòng quanh thế giới của Columbus. Columbus là người Ý nhưng nguyện trung thành với công tước Anjou của Pháp, sau đó với vua Bồ Đào Nha. Khi vua Bồ Đào Nha từ chối cấp tàu thám hiểm thế giới, ông lần lượt đề nghị công tước Medina-Sedonia, bá tước Medina-Celi, trước khi được vua và hoàng hậu Tây Ban Nha đồng ý. Nếu châu Âu là một đế chế tập quyền dưới sự cai trị của ba vị vua chúa đầu tiên, hẳn cuộc chinh phục Tân Thế giới đã chết từ trong trứng. Và chắc chắn cuộc cải cách Tin Lành không thể xẩy ra.

Ngược lại, địa lý Trung Quốc không có các rào chắn tự nhiên đủ mạnh để một vùng nào đó có thể duy trì sự độc lập lâu dài khi đối đầu với nhà nước tập quyền trung ương. Bên cạnh đó, Trung Quốc lại có các hàng rào tự nhiên đủ vững chắc để bảo vệ mình trước sự xâm lược của các thế lực bên ngoài (biển và đại dương phía đông, sa mạc phía tây, những dãy núi cao nhất thế giới phía tây nam, rừng rậm phía nam; riêng mạn bắc và tây bắc thì đã có Vạn lý trường thành).

Nói cách khác, địa lý châu Âu ưu ái một hệ thống các nhà nước đa dạng, và cuộc cạnh tranh trường diễn giúp hệ thống đó năng động và cởi mở với các cải cách. Trong khi đó, địa lý Trung Quốc khuyến khích một nhà nước duy nhất, hiếm khi phải đối mặt với nguy cơ ngoại xâm, nên khép kín và bảo thủ. (Sử sách từng ghi lại, năm 1793, Earl Macartney dẫn theo 3.000 người và 600 thùng quà ra mắt triều đình nhà Thanh với đề nghị mở cửa các hải cảng cho tàu Anh vào buôn bán. Do không chịu quỳ gối trước vị hoàng đế chuyên chế, ông đã nhận được sự từ chối đầy ngạo mạn: “Đế chế của chúng ta cái gì cũng thừa thãi!”) Và theo Lang, đó chính là nguyên nhân giải thích sự ra đời của khoa học hiện đại tại châu Âu, chứ không phải tại Trung Quốc.

Tuy nhiên, người viết xin lưu ý rằng, một sự phân chia quyền lực tối ưu như tại Tây Âu mới mang lại sự cạnh tranh lành mạnh. Trong khi đó, sự phân mảnh thái quá là một trở lực đối với Ấn Độ. Xã hội Ấn Độ bị chia rẽ mạnh mẽ về tôn giáo, chính trị và đẳng cấp đến mức, nó không thể tập trung được mọi nguồn lực nội tại cho sự ra đời và phát triển của khoa học hiện đại. Nói cách khác, ngược với sự tập quyền cao độ tại Trung Quốc và sự phân mảnh thái quá của Ấn độ, chính sự phân chia quyền lực tối ưu tại châu Âu đã tạo điều kiện cho hạt giống khoa học hiện đại nẩy mầm và đơm hoa kết trái.

Lý thuyết các nhà nước giầu có:

Trong số các quan điểm duy vật, lý thuyết các nhà nước giầu có của nhà vật lý David Cosandey người Thụy Sỹ có lẽ hoàn chỉnh và giầu sức thuyết phục nhất. Vì thế nó được trình bày trong một phần riêng biệt.

Trong tác phẩm bằng tiếng Pháp Bí ẩn của phương Tây, 1997, Cosandey cho rằng, giải thích sự vượt trội của phương Tây bằng các nguyên nhân “nội tại” như văn hóa, tôn giáo, di truyền, khí hậu, tinh thần Hy Lạp… đều không chính xác, vì vướng phải “hai hòn đá tảng”: sự lạc hậu của Đông Âu và sự thăng giáng quyền lực giữa các nền văn minh. Đông Âu rất tương đồng với Tây Âu về văn hóa, tôn giáo, chủng tộc, khí hậu, nhưng luôn luôn chậm chân hơn Tây Âu một bước. Và trong lịch sử, Trung Quốc, Ấn Độ hoặc Trung Đông từng dẫn đầu thế giới về khoa học và công nghệ. Điều đó không phù hợp với các giả định về ưu thế tinh thần mang tính bản chất của Tây Âu, như Weber hoặc Huff quan niệm. Mặt khác, ngay các ưu thế đó, nếu có, cũng cần phải giải thích.

Lý thuyết các nhà nước giầu có:

Trong số các quan điểm duy vật, lý thuyết các nhà nước giầu có của nhà vật lý David Cosandey người Thụy Sỹ có lẽ hoàn chỉnh và giầu sức thuyết phục nhất. Vì thế nó được trình bày trong một phần riêng biệt.

Trong tác phẩm bằng tiếng Pháp Bí ẩn của phương Tây, 1997, Cosandey cho rằng, giải thích sự vượt trội của phương Tây bằng các nguyên nhân “nội tại” như văn hóa, tôn giáo, di truyền, khí hậu, tinh thần Hy Lạp… đều không chính xác, vì vướng phải “hai hòn đá tảng”: sự lạc hậu của Đông Âu và sự thăng giáng quyền lực giữa các nền văn minh. Đông Âu rất tương đồng với Tây Âu về văn hóa, tôn giáo, chủng tộc, khí hậu, nhưng luôn luôn chậm chân hơn Tây Âu một bước. Và trong lịch sử, Trung Quốc, Ấn Độ hoặc Trung Đông từng dẫn đầu thế giới về khoa học và công nghệ. Điều đó không phù hợp với các giả định về ưu thế tinh thần mang tính bản chất của Tây Âu, như Weber hoặc Huff quan niệm. Mặt khác, ngay các ưu thế đó, nếu có, cũng cần phải giải thích.

david.jpg

Theo David Cosandey, các yếu tố vật chất như nền kinh tế năng động, gần biển và có bờ biển quanh co là nguyên nhân ra đời của khoa học tại Tây Âu
Theo Cosandey, để khoa học tiến bước trong một nền văn minh, cần có hai điều kiện bắt buộc: một nền kinh tế năng động và một sự phân chia quyền lực ổn định. Vì thế một hệ thống các nhà nước giầu có là cần thiết. Tây Âu có nền sản xuất và thương mại phát triển, và được chia thành nhiều quốc gia cạnh tranh nhau suốt thiên niên kỷ thứ 2; và đó chính là lý do dẫn nó tới thành công.

Một nền kinh tế giầu có và năng động thúc đẩy khoa học tiến bộ theo nhiều cách khác nhau. Nó tạo ra sự thặng dư, cho phép đầu tư vào các lĩnh vực không sinh lợi tức thời, như khoa học và nghệ thuật. Bên cạnh đó, thương gia, chủ nhà băng, chủ xí nghiệp luôn có nhu cầu sở hữu các máy móc sản xuất tiên tiến và các công cụ tính toán, đo đếm và định lượng chính xác. Khoa học thỏa mãn được nhu cầu đó, vì thế tâm thức “yêu’ khoa học dần dần được củng cố trong xã hội. Mặt khác, khác với giới tăng lữ, các nhà khoa học không hề đe dọa vai trò thống trị của các thương gia và giới hữu sản trong xã hội. Vì thế thương gia và nhà sản xuất luôn quan tâm và đầu tư cho khoa học, một truyền thống tốt đẹp có tại châu Âu từ thời Trung cổ.

Bên cạnh yếu tố kinh tế, giống như quan niệm của Lang, Cosandey nhấn mạnh vai trò của sự phân chia quyền lực ổn định. Một sự phân mảnh quyền lực chính trị tối ưu (khái niệm của Jared Diamond, nổi tiếng với bộ ba tác phẩm Loài tinh tinh thứ ba; Súng, thép và vi trùng; và Sụp đổ về bản chất con người, nguồn gốc văn minh và căn nguyên của thành công hoặc thất bại của các quốc gia. Tất cả đã được ấn hành bằng tiếng Việt) có thể giúp đỡ khoa học theo nhiều cách khác nhau. Nó tạo ra sự tự do, khi không có sự đơn cực về chính trị, nên không một thế lực chính trị hoặc tôn giáo nào có thể kiểm soát mọi thứ. Khi bị cấm đoán và đàn áp ở quốc gia này, nhà khoa học cùng tư tưởng, lý thuyết hoặc công cụ mới có thể di chuyển sang các quốc gia khác (Trung Quốc cũng trải qua hoàn cảnh tương tự trong thời Xuân Thu Chiến Quốc. Đó là lý do ra đời của Bách gia chư tử và hầu hết các sáng tạo tư tưởng Trung Hoa như âm dương ngũ hành, Kinh Dịch, Khổng giáo hoặc Đạo giáo…). Đồng thời sự cạnh tranh trường diễn, kể cả về quân sự, khiến cho không chỉ giới thương gia hoặc nhà sản xuất, mà cả các chính phủ cũng quan tâm và đầu tư cho khoa học, nhằm chiếm ưu thế, chí ít là không thua kém các quốc gia đối địch.

Không chỉ lý giải được sự thành công của Tây Âu, lý thuyết Cosandey còn giải quyết được bài toán về sự lạc hậu tương đối của Đông Âu, khi nó không có sự phân mảnh chính trị ổn định; cũng như thành công của Trung Quốc, Ấn Độ hoặc Trung Đông trong quá khứ, mỗi khi các nền văn minh đó có sự phát triển kinh tế và sự phân quyền chính trị thích hợp.

Cũng như Diamond hoặc Lang, Cosendey tìm kiếm nguồn gốc của sự phân quyền tại châu Âu từ các căn nguyên địa lý. Trong đó, khoảng cách gần biển và các bờ biển quanh co và hiểm trở là ưu thế nổi bật của Tây Âu so với Đông Âu. Biển cho phép thương mại biển phát triển, với các ưu thế nhanh hơn, nhiều hơn và do đó rẻ hơn. Bờ biển quanh co và hiểm trở cho phép nhiều quốc gia tự bảo vệ mình tốt hơn, như Anh, Ireland, Italy, Tây Ban Nha, Bắc Âu… Nó cũng tạo điều kiện cho các thành phố tự trị ra đời, phát triển và tồn tại lâu dài.

Với các kiến thức toán học và vật lý, Cosandey tiến hành tính toán khoảng cách từ các trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa lớn tới bờ biển và chiều kích fractal, một đại lượng toán học đặc trưng cho sự quanh co của một cấu trúc vật chất. Đúng như giả định, ông thấy Tây Âu có khoảng cách tới biển ngắn nhất và độ khúc khuỷu của bờ biển lớn nhất so với Đông Âu, Trung Đông, Ấn Độ và Trung Quốc. Điều đó cho thấy lý thuyết các nhà nước giầu có có cơ sở học thuật và thực tiễn tốt.

Vĩ thanh:

Tại sao khoa học hiện đại ra đời tại phương Tây, trong khi Trung Quốc thời nhà Minh đầu thế kỷ XV xứng đáng đứng đầu thế giới về sự phát triển? Nửa thế kỷ trước chuyến viễn du vòng quanh thế giới của Columbus, hạm đội của Trịnh Hòa, với các con tàu dài hàng trăm mét và hải đội gần 30.000 người, đã đi tới tận mũi Hảo Vọng tại Nam Phi. So với hạm đội kỳ vĩ đó, mấy con tàu bé tẹo của Columbus chỉ đáng làm trò cười! Vậy tại sao chỉ sau vài thế kỷ, Tây Âu đã vượt xa lên phía trước?

Để lý giải nguyên nhân ra đời của khoa học hiện đại, và do đó cuộc cách mạng công nghiệp và chủ nghĩa tư bản, tại Tây Âu chứ không phải tại Trung Quốc hoặc Ấn Độ, các học giả đã đưa ra nhiều quan niệm khác nhau. Trong khi các nhà văn hóa luận như Weber hoặc Huff nhấn mạnh vai trò của các yếu tố tinh thần; thì các nhà cấu trúc hoặc duy vật luận như Engels, Lang hoặc Cosandey đề cao các thành tố vật chất. Theo người viết bài này, các lý thuyết cấu trúc hoặc duy vật không chỉ trả lời được Câu hỏi lớn của Needham, mà còn giải thích được chính các nguyên nhân văn hóa. Điều đó hoàn toàn phù hợp với quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, vốn xem tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội.

Suy cho đến cùng, sự phân chia quyền lực tối ưu là điều kiện cần thiết cho sự phát triển. Cấu trúc chính trị của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ rất phù hợp với mô hình phân chia quyền lực này; và đó có thể là căn nguyên giúp xã hội Mỹ luôn luôn năng động. Vậy tại sao Châu Âu hiện đại lại tự khép mình vào khuôn khổ của một liên minh? Tại sao Trung Hoa hiện đại phát triển với tốc độ thần kỳ trong khi vẫn duy trì được sự thống nhất? Và tại sao Nhật Bản cho rằng, chủ nghĩa tư bản tại Nhật Bản là chủ nghĩa tư bản Khổng giáo? Người viết hy vọng sẽ được trình bày về các vấn đề đó trong những dịp thích hợp.
 
Sửa lần cuối:
Tại sao Phương Đông đi trước về sau
https://voer.edu.vn/m/tai-sao-phuong-dong-di-truoc-ve-sau/6b03685a

Cuốn sách “Một góc nhìn của trí thức”, do tạp chí Tia Sáng và NXB Trẻ ấn hành, là tập hợp các bài báo của hàng trăm nhà khoa học và văn nghệ sĩ. Ðọc những cái tên như Hoàng Tụy, Phan Ðình Diệu, Vũ Ðình Cự, Phan Ngọc, Trần Quốc Vượng, Lê Ðạt, Nguyên Ngọc... không thể không mua và bày ngay vào vị trí trang trọng nhất! Và quả thật hy vọng đã được đền đáp: nhiều bài viết rất trí tuệ, thú vị và kích thích tư duy, điều khó gặp trong cùng một tác phẩm.

Tuy nhiên như lẽ thường tình, ngọc thường có vết. Lời dẫn viết: “Ðọc ‘Tia sáng – Một góc nhìn của trí thức’, bạn sẽ tìm thấy cái mình chờ đợi. Trước hết ở những tri thức mới của nhiều ngành khoa học như: Bohr chưa hẳn đã sai; Sự thức tỉnh vĩ đại; Mạng và cách mạng; Ði tắt, đón đầu như thế nào? Nghịch lý công nghệ; Ðạo lý và kinh tế: Kinh tế trí thức; Nỗi niềm nông dân...”. Thế là tôi đọc ngay hai bài mà tiêu đề mang đầy vẻ thách thức: “Bohr chưa hẳn đã sai” và “Sự thức tỉnh vĩ đại”. Ðáng ngạc nhiên thay, đó lại là hai bài viết bác bỏ những nghiên cứu của nhân loại trong các lĩnh vực vật lý và sự hình thành văn minh. Trong “Bohr chưa hẳn đã sai”, Chu Hảo cho rằng nguyên lý bất định Heisenberg, một trong những nguyên lý cơ bản nhất của vũ trụ, đã đến hồi cáo chung; còn trong “Sự thức tỉnh vĩ đại”, Ngô Tự Lập cho rằng văn minh xuất hiện là do sự thức tỉnh của con người về quyền tư hữu. Ngô Tự Lập cũng mở rộng vấn đề, khi xem phương Ðông tuy thức tỉnh trước, nhưng không triệt để vì vẫn duy trì chế độ công hữu về ruộng đất đến tận thế kỷ XIX. Và đó là lý do văn minh phương Ðông đi trước về sau. Còn phương Tây, tuy thức tỉnh muộn nhưng tư hữu triệt để hơn, nên đã vượt xa phương Ðông. Ðến cuối thế kỷ XX, phương Ðông đã thấy thiếu sót và lần thức tỉnh thứ hai này (tư hữu triệt để hơn?) đem lại một làn sóng phát triển mới.

Chúng tôi sẽ trao đổi với Chu Hảo về những bí ẩn của cơ học lượng tử vào dịp khác, ở đây xin được bàn với Ngô Tự Lập một số vấn đề về sự hình thành và phát triển của nền văn minh nhân loại. Ðầu tiên cần lưu ý rằng, dường như tác giả có xu hướng dùng lý luận phi mác xít trong lập thuyết. Ðể tránh những hiểu lầm không đáng có, trước tiên cũng xin dùng lý luận phi mác xít để trao đổi.

Khi xem “sự trưởng thành và sau đó là sự phát triển của xã hội loài người gắn liền, hay nói đúng hơn là phụ thuộc vào mức độ thức tỉnh của con người đối với quyền tư hữu, một sự thức tỉnh đầy tính ích kỷ và mâu thuẫn”, tác giả đã sơ giản quá mức những động lực cơ bản của sự phát triển. Thế các điều kiện tự nhiên, xã hội, điều kiện dân số không có vai trò gì hay sao? Bao nhiêu nền văn minh đã sụp đổ, phải chăng vì họ thiếu quyền tư hữu? Tác giả nghĩ sao khi người ta cho rằng, nền văn minh Maya của người da đỏ bị diệt vong chủ yếu do động đất và bệnh tật? Tại sao chỉ đến 4-5 thế kỷ gần đây, phương Tây mới bỏ xa phương Ðông, như tác giả đã nhận xét?

Văn minh và nhà nước

Do sự xuất hiện của nông nghiệp 10 ngàn năm trước, nên sự phát triển xã hội loài người đã có bước nhảy vọt về chất. Và khoảng 7000 năm trước, xuất hiện một hình thức tổ chức chính trị xã hội hoàn toàn mới là nhà nước, kèm theo một loại hình định cư cũng hoàn toàn mới là thành phố. Sự xuất hiện của nhà nước và thành phố đồng thời với sự xuất hiện của nền văn minh. Ðối với chúng ta, thuật ngữ văn minh gợi nhớ đến nghệ thuật, chữ viết cũng như những phương tiện vật chất và tinh thần do công nghệ tạo ra. Năm 1972, Kent Flannery dùng thuật ngữ văn minh để chỉ “phức hợp các hiện tượng văn hóa có xu hướng xuất hiện cùng một hình thức tổ chức chính trị xã hội đặc biệt là nhà nước”. Còn nhà nước, theo V.G. Childe (1952), là sự tồn tại của loại quyền lực trung tâm có quyền thu thuế trên giá trị thặng dư do sự thâm canh đất đai và do nền sản xuất phát triển. “Phức hợp các hiện tượng văn hóa” bao gồm:

Chữ viết.
Các khoa học dự báo chính xác như thiên văn học và toán học.
Nghệ thuật tượng trưng phản ánh quan niệm và kỹ thuật tinh tế, được đặc trưng bằng một phong cách chính thống dành cho thần thánh và giới cầm quyền.
Dân số và qui mô định cư lớn (thành phố).
Quyền công dân: tổ chức xã hội dựa trên giai cấp và sự định cư hơn là quan hệ họ hàng.
Cấu trúc xã hội: phân chia thành các giai cấp khác nhau.
Các nghề nghiệp phi nông nghiệp: thợ thủ công, nhà buôn, tu sĩ, quan chức ...
Mạng lưới thương mại rộng lớn, trao đổi cả nhu yếu phẩm, vật dụng và dịch vụ xa xỉ.
Các công trình công cộng mang tầm vóc tượng đài.
Những chuyên gia tôn giáo chuyên nghiệp chăm lo tín ngưỡng quốc gia.
Không phải mọi nền văn minh cổ đều thoả mãn các tiêu chí này, tuy nhiên những tiêu chí quan trọng nhất thì không được bỏ qua như chữ viết, khoa học hay tổ chức xã hội và điều kiện dân cư. Tuy nhiên nhìn vào đây, vẫn chưa hiểu vì sao phương Tây vượt phương Ðông trong vòng 4-5 thế kỷ gần đây. Vì thế có lẽ nên tìm một tiếp cận khác.

Khoa học và sự xuất hiện của công nghiệp

Như trên đã nói, văn minh xuất hiện cùng với nhà nước, mà tiền đề của cả hai là sự xuất hiện của nông nghiệp. Trước thời kì công nghiệp, trình độ phát triển Ðông Tây không có sự khác biệt đáng kể, vì nền sản xuất nông nghiệp chủ yếu dựa trên những tri thức mang tính kinh nghiệm. Sự khác nhau rõ rệt xuất hiện từ thời Phục hưng và Khai sáng, khi mọi hoạt động vật chất và tinh thần tại phương Tây bắt đầu phát triển mạnh mẽ. Khoa học hiện đại xuất hiện cùng với Copernicus và Galilée, cho phép con người khám phá những động lực cơ bản của vũ trụ và xã hội loài người. Máy hơi nước của James Watt, cùng các loại máy móc khác, đã tạo tiền đề cho nền công nghiệp xuất hiện và phát triển. Theo thiển ý, phương Tây vượt phương Ðông là do nền sản xuất công nghiệp vượt nền sản xuất nông nghiệp. Gốc rễ của nó là trình độ khoa học hiện đại vượt qua hệ kiến thức mang màu sắc trực quan và kinh nghiệm. Cũng cần nói thêm, ở đây khái niệm khoa học được dùng với khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật cùng mọi loại hình khoa học xã hội và nhân văn, bao gồm chính trị học và khoa học quản lý.

Tác giả cho rằng ý thức về sự tư hữu khoảng 5-10 ngàn năm trước là động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội, là nguyên nhân khiến phương Tây đi sau mà vượt trước. Lập luận như thế nghe qua cũng có lý, nhưng ngẫm kỹ thì không ổn. Nên nhớ rằng, chỉ đến Cách mạng tư sản Pháp 1789, quyền tư hữu mới được pháp luật công nhận và bảo vệ một cách đầy đủ. Chỉ đến khi đó loài người mới ý thức hoàn chỉnh về quyền tư hữu, mới “thức tỉnh vĩ đại” về một quyền rất căn bản của mình. Trước đó chỉ hoàng đế mới có quyền sở hữu đúng nghĩa, còn mọi thần dân, sinh mạng cũng chưa chắc giữ được, nói gì đến sự tư hữu!

Ðược đào tạo về khoa học tự nhiên nên có thể phiến diện, nhưng chúng tôi thực sự tin rằng, chính khoa học đã làm nên sự khác biệt giữa Ðông và Tây trong khoảng 500 năm nay. Người ta nói rằng chỉ trong một thế kỷ, khoa học đã làm biến đổi thế giới nhiều hơn 100 thế kỷ trước đó cộng lại. Và ngày nay với sự xuất hiện của văn minh tri thức, văn minh thông tin (chứ không phải văn minh “tâm linh”), sự phát triển sẽ còn nhanh chóng hơn nữa. Khi Clinton nhậm chức tổng thống tháng 1-1993, chỉ có 35 địa chỉ trang web trên Internet. Vậy mà khi ông rời Nhà Trắng tháng 12-2000, con số đạt 300 triệu! Tăng trưởng gần mười triệu lần trong tám năm, đó không phải là lý do giúp phương Tây vượt lên hay sao?

Khi Napoleon tấn công Ai Cập, một lần đang hành quân thì bị tập kích, vị hoàng đế kiêu hùng đã ra một mệnh lệnh bất tử: “Lừa ngựa và các nhà khoa học hãy đi vào giữa”. Lừa ngựa tất nhiên phải bảo vệ, vì đó là điều kiện sống còn của đội quân viễn chinh giữa sa mạc. Nhưng kỳ diệu thay, với Napoleon, các nhà khoa học cũng có tầm quan trọng sống còn như vậy, cho dù ông đang ở Ai Cập, chứ không phải giữa Viện hàn lâm khoa học tại Paris. Và quả thật khoa học đáng được đối xử như vậy, nếu ta nhìn các xã hội tri thức ngày nay. Có thể sai lầm, nhưng chúng tôi cho rằng, phương Ðông chậm bước chính vì ở đây, giới khoa học chưa bao giờ được đi vào giữa.

Lực lượng sản xuất và các giá trị châu Á

Sẽ sai lầm nếu cho rằng phương Ðông duy trì chế độ công hữu về ruộng đất đến tận thế kỷ XIX. Làng xã phương Ðông xưa luôn có một số công điền để lấy hoa lợi chi cho việc làng. Nên xem đó là điều hay chứ không phải là nét dở. Số công điền đó có diện tích rất nhỏ trên tổng quĩ đất nên không thể là nguyên nhân kìm hãm phương Ðông. Nếu không thì may cho phương Ðông quá: chỉ cần tư hữu hết số công điền là phương Ðông sẽ phát triển vượt bậc ngay lập tức!

Thực ra cách lập luận chỉ dựa trên khoa học khó tránh khỏi khiên cưỡng. Thỏa đáng nhất là dùng lý luận về các hình thái kinh tế xã hội, về mối quan hệ giữa lực lượng và quan hệ sản xuất, về đấu tranh giai cấp (hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm cả sự hợp tác) trong sự thúc đẩy xã hội loài người. Khi đó sẽ thấy ngay rằng, khoa học có vai trò động lực là lẽ tự nhiên vì nó đã thực sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Và lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ sẽ kéo theo sự biến đổi thích đáng của quan hệ sản xuất, dẫn tới sự phát triển nhanh chóng của xã hội phương Tây. Dưới ánh sáng học thuyết mác xít, quan hệ Ðông Tây trở nên khá rõ ràng. Chúng ta nên học tập các học giả phương Tây trong việc đánh giá Marx. Giáo sư triết học George J. Stack của Ðại học bang New York cho rằng: “Dù tốt hay xấu, Marx có ảnh hưởng đối với thế giới hơn bất cứ nhà tư tưởng hiện đại nào” (Bách khoa toàn thư về không tín ngưỡng, NXB Prometheus Books, 1985, trang 443). Trong cuốn tiểu thuyết về lịch sử triết học Thế giới của Sophie bán hàng chục triệu bản tại châu AÂu, tác giả Jostein Gaader người Ðan Mạch viết: “Ngày nay tại châu AÂu, chúng ta được sống trong một xã hội vô cùng công bằng và văn minh. Chúng ta đạt được điều đó là nhờ Marx”. Ði tìm nhà khoa học ảnh hưởng nhất tới tư duy hiện đại, giáo sư sinh học Ernst Mayr tại Ðại học Harvard dẫn ra Marx, Freud, Einstein và Darwin (Người Mỹ khoa học, 7-2000).

Vì sao cuối thế kỷ XX, xuất hiện hàng loạt những con rồng châu Á? Học tập phương Tây về quản lý và khoa học thì đã hẳn, nhưng điều đó vẫn chưa giải thích được vì sao Trung Quốc phát triển quá nhanh. Thiết nghĩ ở đây các giá trị châu Á có tiếng nói quyết định, như Lý Quang Diệu từng phát biểu. Ðó là coi trọng các giá trị tinh thần; là tìm kiếm sự đồng điệu với môi trường và xã hội; là ý thức cộng đồng; là đặt lợi ích quốc gia, lợi ích tập thể lên trên lợi ích cá nhân... Giữa lúc khoa học công nghệ phương Tây bắt đầu bộc lộ những nhược điểm chết người bên cạnh vai trò động lực phát triển, các giá trị đó càng có sức hấp dẫn và lan tỏa. Một số học giả Âu Mỹ cho rằng, chủ nghĩa cá nhân là căn nguyên tạo nên năng suất lao động cao tại phương Tây, còn chủ nghĩa tập thể là vấn đề cần tháo gỡ của phương Ðông. Sự phát triển của Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc và nhất là Trung Quốc cho thấy đó là một định kiến sai lầm.

Chiêm ngưỡng các công trình vĩ đại như Kim tự tháp, lăng mộ Tần Thủy Hoàng,... có người cho rằng, mọi nền văn minh đều bị cái chết ám ảnh. Người khác lại cho rằng, các công trình đó phản ánh ước nguyện được đối diện với những thế lực cơ bản của vũ trụ. Tuy nhiên nếu không có ước nguyện khám phá và ý thức cộng đồng, loài người không thể đạt được trình độ phát triển như ngày nay. Không phải “sự thức tỉnh vĩ đại” về quyền tư hữu, mà chính ý thức cộng đồng mới là động lực chủ yếu của xã hội. Tìm lợi ích riêng trong lợi ích chung, đó không phải là nguyên tắc ứng xử căn bản hiện nay hay sao?

Tại sao khoa học không xuất hiện tại phương Đông?

Xem khoa học là động lực phát triển, là căn nguyên vượt trội của phương Tây sẽ dẫn ngay tới câu hỏi: Vì sao khoa học không xuất hiện tại phương Ðông, dù bánh xe, thuốc súng, la bàn... xuất phát ở đây? Ðó là câu hỏi thú vị nhưng rất khó trả lời. Chúng tôi xin mạo muội trình bày một số ý kiến ban đầu, rất mong nhận được sự thông cảm của bạn đọc.

Lý do đầu tiên, theo quan điểm của nhà hóa học Bỉ đoạt giải Nobel Ilya Prigogine, là các tôn giáo phương Ðông không có một đấng tối cao quản lý vũ trụ bằng các qui luật xác định. Và dĩ nhiên giới trí thức phương Ðông không tìm cách giải mã các qui luật thần thánh đó, như sự ngợi ca đối với tín ngưỡng và tôn giáo của cộng đồng mà nhà trí thức là một thành viên. Ðây là điều ngược với phương Tây, nơi giới học giả thấm đẫm tinh thần Thiên chúa giáo tìm mọi cách khám phá các qui luật tự nhiên nhằm sáng danh Chúa và kỳ lạ thay, cuối cùng tìm ra khoa học. Tại phương Ðông, các học giả lảng tránh trách nhiệm này, khi giữ quan điểm kính nhi viễn chi (kính cẩn mà tránh ra xa) đối với thánh thần và ma quỉ, là những thế lực quản lý vũ trụ, nói cách khác là những qui luật khoa học.

Lý do thứ hai nằm chính ở điểm được xem là mạnh của phương Ðông. Ðể nhận thức vũ trụ và xã hội loài người, văn minh Trung Hoa sáng tạo ra thuyết âm dương, một học thuyết có tính duy vật chất phác và biện chứng thô sơ, xem vũ trụ khởi nguyên từ Thái cực, một loại nguyên khí hỗn mang. Thái cực sinh Lưỡng nghi sinh Tứ tượng sinh Bát quái rồi sinh ra 64 đại thành quái. Các đại thành quái tương tác nhau tạo nên một mạng lưới mà không một hiện tượng tự nhiên hay xã hội nào không bị chi phối. Sự chặt chẽ nội tại của học thuyết lớn đến nỗi, trải hàng ngàn năm mà kẻ sĩ chỉ cần học thuộc là đủ cho mọi hoạt động nhận thức! Suy ngẫm quan điểm của triết gia Popper, rằng một lý thuyết chỉ được xem là khoa học khi chứa đựng những yếu tố tự phủ định nhằm tạo điều kiện cho lý thuyết mới ra đời, ta sẽ hiểu vì sao khoa học không thể xuất hiện tại phương Ðông. Và ta cũng hiểu vì sao các nhà nho xưa xem khoa học chỉ là trò dâm xảo của người Tây dương. Trong môi trường nhận thức như thế, phát minh la bàn, thuốc súng... chỉ là sự ngẫu nhiên nên không thể trở thành hạt giống tốt gieo mầm cho một mùa thu hoạch khoa học và công nghệ, điều kiện tiên quyết của nền sản xuất đại công nghiệp, điều mà phương Tây vượt trội phương Ðông.

Cần nói thêm rằng, trong phong trào khám phá phương Ðông, một số học giả phương Tây cho rằng, nhận thức phương Ðông xưa rất gần với khoa học hiện đại, nhất là vật lý và vũ trụ học. Tiêu biểu là cuốn Ðạo của vật lý của Fritjof Capra, do tiến sĩ Việt kiều Nguyễn Tường Bách biên dịch. Theo tác giả, lý luận của các học thuyết tôn giáo và triết học phương Ðông rất phù hợp với quan điểm vật lý hiện đại về thế giới vi mô, về sự phát sinh và phát triển vũ trụ. Ðây chính là ví dụ điển hình của việc ca ngợi phương Ðông không đúng cách và thiếu cơ sở. Ngay phụ đề sách cũng bị vô tình hay cố ý dịch sai. Một khám phá mới về sụ tương đồng giữa vật lý hiện đại và huyền bí phương Ðông được dịch là Một khám phá mới về sự tương đồng giữa vật lý hiện đại và đạo học phương Ðông. Ðạo học và huyền bí học là hai vấn đề khác hẳn nhau. Còn sự tương đồng hình thức trong ngôn ngữ giữa đạo học phương Ðông và vật lý hiện đại thì đã được Michael Shermer nhận chân trong Những ngôi sao trong Tử cấm thành: Sự tương đồng mơ hồ đó chỉ là kết quả của một sự thật; rằng có sự uyển chuyển trong cách giải thích thế giới; và tình cờ một số cách tỏ ra trùng hợp về mặt hình thức. Nói cách khác, tương quan giữa hệ kiến thức trực quan, kinh nghiệm, tư biện phương Ðông và nền khoa học duy lý, giầu tính thực nghiệm phương Tây chỉ là tương quan ảo.

Cuối cùng xin nhấn mạnh rằng, chính khoa học đã tạo nên sự phát triển của phương Tây kể từ thời Phục hưng và Khai sáng; chính sự kết hợp khoa học hiện đại với hệ giá trị phương Ðông đã tạo nên kỳ tích Nhật Bản và Trung Quốc. Và chúng ta cần nhanh chóng đưa các nhà khoa học đi vào giữa, cùng với lừa và ngựa.
 
Do dân nó đc tiếp cận triết học và máy in ra đời đúng thời điểm. Dân được khái sáng và các phát minh đc ra đời. Done.
 
quê tau có lý luận khoa học chủ nghĩa mác lê lông tư tưởng bacho đéo ngán phương tây
Mác lê có sau thời kỳ phục hưng cả ngàn năm mà đòi sóng sánh vs đại dương. Tư tưởng mác lê là triết học dị dạng nửa vời, nó chỉ đúng thời điểm đúng con người mà thôi.
 
Khả năng cao. Thấy dân bên thiên chúa tại vịt nam kinh tế khá hơn bên lương
Tôn giáo nào theo tao thấy, nguồn gốc ban đầu cũng đều là triết học.
Tuy nhiên Thiên chúa giáo nó hiện thực: Nó nói thẳng, không mơ hồ. 1+1=3 (Cũng như trái đất tròn, mặt trời quay quanh trái đất,....). Nếu mày trái lời, mày bị chính tôn giáo đó xử lý.
Mày làm ác, xuống địa ngục. Mày làm tốt, lên thiên đàng.
Còn những tôn giáo còn lại mơ hồ, cảm giác như không hiện thực, làm cho mọi người theo 1 đức tin nhưng không có mâu thuẫn. Mà mâu thuẫn là động lực để cạnh tranh và phát triển.
Tao đoán là thế.
 
bởi vì nó là hiện thực và thực tế chứ ko phải tuyên truyền và giả dối
 
Châu á nó bị khổng giáo ám 2000 năm,làm cái lồn gì cũng buộc phải suy nghĩ cho đúng luân thường đạo lý,cho làm trọn chữ hiếu suốt đời quanh quẩn bên gia đình.Mục tiêu cuộc đời lúc lồn nào cũng phải cho là tu thân tề gia trị cuốc bình thiên hạ
trong lúc đó châu âu thế kỉ 17 bọn nó đã có tư tưởng khám phá thế giới rồi.mày tìm hiểu sẽ biết thời đó bọn nó đã dong buồm đi khắp thế giới rồi,từ thời đó bọn nó đã tìm ra trọng lực,đo khoảng cách giữa các vì sao,nghiên cứu về điện,đo độ tuổi của trái đất,lặn hàng nghìn km xuống đáy biển,nghiên cứu y học,sưu tầm khoáng chất, ý tưởng cơ bản đầu tiên về nguyên tử,…có những con người cống hiến cả cuộc đời cho 1 bộ môn (dù rằng họ ko đạt được thành quả gì) nhưng nhờ những con người tâm huyết như bọn họ mà khoa học mới ra đời
chứ cais địt mẹ cùng thời điểm đó bên châu á thì dân mà nghe tiếng sấm thôi cũng sợ ỉa cả quần vì lo thiên lôi nổi giận ,ngu si như đám vượn suốt ngày đọc sách khổng tử rồi tự cho mình đã thấu hiểu sự đời dương dương tự đắc.so với bọn châu âu thì khác đéo gì bọn khỉ chưa tiến hoá không chứ
 
Top